This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Hai, 1 tháng 1, 2001

Bất thường ở mắt khi mang thai

Khi mang thai, sự thay đổi hormon sẽ ảnh hưởng đến những bộ phận trên cơ thể người mẹ. Mắt cũng bị ảnh hưởng do có nhiều mạch máu nhỏ, vốn nhạy cảm với những biến động huyết học trong thai kỳ.

 Hầu hết các vấn đề ở mắt thường biến mất sau khi sinh. Ảnh minh họa
Hầu hết các vấn đề ở mắt thường biến mất sau khi sinh. Tuy nhiên, thai phụ cần cẩn trọng khi mắt có những triệu chứng do biến chứng của các bệnh khác. Do đó, cần chú ý khi nhận thấy những dấu hiệu sau:

Sưng mắt: Trong ba tháng cuối thai kỳ, thai phụ thấy mắt sưng phù và khó nhìn mọi vật. Nguyên nhân do sự thay đổi hormone trong thai kỳ. Sưng mắt thường đi kèm với sưng phù tay, chân. Ngoài ra, mắt có thể sẽ phù nặng hơn nếu cơ thể thiếu nước và ăn nhiều muối. Để giảm sưng phù, bạn nên uống đủ nước (khoảng 1,8 - 2 lít nước/ngày), ăn nhiều rau xanh và trái cây, tránh các món ăn quá mặn.

Mờ mắt: Khi mang thai, giác mạc và thủy tinh thể trở nên dày hơn, làm cho quá trình tuần hoàn máu ở vùng mắt bị hạn chế. Đây là nguyên nhân khiến mắt bị giảm thị lực. Hiện tượng này thường biến mất sau khi sinh. Nếu mắt mờ gây ảnh hưởng đến công việc, bạn nên đi khám tại các cơ sở y tế chuyên khoa mắt để được tư vấn, dùng kính hỗ trợ thị giác trong suốt thai kỳ.

Nốt sần trong mí mắt: Khi mang thai, tuần hoàn máu ở vùng mắt bị hạn chế, dễ gây tắc nghẽn, tạo thành những nốt sần trong mí mắt. Ngoài ra, một số vi khuẩn hoạt động dưới mí mắt cũng gây nên những nốt sần. Đối với thai phụ thường xuyên trang điểm mắt, hiện tượng này phổ biến hơn. Do đó, nên hạn chế kẻ viền mí mắt khi trang điểm. Đồng thời, thai phụ nên hạn chế ăn chất béo và uống nhiều đồ mát.

Khô mắt: Những đốm sáng trước mắt hoặc mắt nhoè đi khi nhìn lâu, xốn, chảy nước mắt sống, nhức... đó là những dấu hiệu cho thấy mắt bị khô. Để hạn chế tình trạng này, có thể nhỏ nước muối sinh lý nếu khô mắt nặng, gây ảnh hưởng đến sinh hoạt. Trong trường hợp mắt đau nhiều, người bệnh cần phải đi khám ở cơ sở chuyên khoa mắt, dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ.

Phù võng mạc: Bệnh tiểu đường hoặc tăng huyết áp trong thai kỳ có thể gây biến chứng trên mạch máu võng mạc. Giai đoạn đầu, mạch máu nhỏ ở đáy mắt bị phình ra. Nếu không chữa trị kịp thời có thể dẫn đến co, bong võng mạc, mù, thậm chí gây biến chứng nghiêm trọng đến não.

Do đó, thai phụ bị bệnh tăng huyết áp hoặc tiểu đường cần được theo dõi sức khoẻ chặt chẽ, kiểm tra mắt thường xuyên. Như thế, bác sĩ sẽ sớm phát hiện và xử lý kịp thời những dấu hiệu bất thường, giúp thai phụ tránh những biến chứng đáng tiếc.

Bác sĩ  Hồng Hạnh

Nhận dạng các chất gây biến dạng bào thai

Các chất này rất đa dạng, nhưng phần lớn là các chất kích thích, được giới chuyên môn gọi bằng cái tên teratogens như hóa chất, các chất gây ô nhiễm có trong môi trường mà sản phụ tiếp xúc hay sử dụng trong thời kỳ mang thai.

1. Rượu

   Rượu được xếp đầu danh sách các hợp chất teratogens bởi nó có tác động rất lớn đối với bào thai. Trước tiên, làm cho trẻ chậm phát triển tâm thần, gây dị tật bẩm sinh, đầu nhỏ, mặt nhỏ và nhiều dị tật khác trên khuôn mặt và ở tứ chi, trẻ sinh thiếu cân, thiếu tháng và rất nhiều tác động tiêu cực đến quá trình phát triển của trẻ. Vì mối nguy hiểm này mà khi mang thai người mẹ hãy tránh xa rượu.

2. Nicotin

Nicotin là hóa chất dễ gây nghiện có nhiều trong thuốc lá. Khi người mẹ hút thuốc, nicotin ngấm vào máu, qua nhau thai đi vào bào thai và nếu thời gian phơi nhiễm nicotin càng lâu thì em bé cũng mắc chứng nghiện, tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như suy hô hấp do thiếu oxy, bào thai phát triển không bình thường, chậm lớn, phát sinh tình trạng đẻ non, nhẹ cân khi sinh và nhiều hậu quả lâu dài khác khi trẻ trưởng thành.

 Khi mang thai không được sử dụng thuốc lá và rượu. Ảnh minh họa
3. Cocaine và amphetamin

Đây là nhóm thuốc kích thích thần kinh, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các tế bào thần kinh. Nếu lạm dụng có thể tạo các khối u nang trong não của trẻ, tăng khuyết tật khi sinh, thai chết lưu và trẻ sinh ra dễ mắc chứng nghiện, phát triển hành vi khác thường, trí não trẻ phát triển kém, ngỗ ngược và nhiều ảnh hưởng khác đến tâm tính khi trưởng thành.

4. Các loại virút

Một số loại virút dưới đây được xem là rất nguy hiểm cho phụ nữ giai đoạn mang thai như virút gây bệnh sởi Đức hay còn gọi là rubella, virút cytomegalovirus (CMV), virút gây bệnh herpes và varicella zoster virút (VZV). Đây là 4 loại virút phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh có rủi ro lây nhiễm cao thậm chí có tới 90% số trẻ sinh nhiễm vi rút CMV mà không hề có bất kỳ dấu hiệu thể hiện ra bên ngoài. Thủ phạm gây nhiều mối nguy như khuyết tật tim bẩm sinh, điếc, mù ở trẻ nếu nhiễm virút rubella, gây kém phát triển não, vôi hóa trong não, mù điếc nếu nhiễm CMV và virút herpes hoặc mắc bệnh viêm phổi nếu nhiễm virút VZV. Phụ nữ trước khi mang thai cần tư vấn bác sĩ phương pháp phòng ngừa hoặc tiêm phòng vắc-xin nếu được phép.

5. Khuẩn gây bệnh giang mai

Khuẩn giang mai thường lây lan qua đường tình dục, đây là loại khuẩn cực nhỏ hình xoắn ốc, có tên là Treponemes. Nếu không được điều trị bệnh giang mai có thể phát triển qua 3 giai đoạn lâm sàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ sản phụ lẫn trẻ sơ sinh. Đối với người mẹ nó sẽ đi vào dòng máu sau đó truyền sang cho trẻ, gây sảy thai, thai chết lưu hoặc chết trong vòng vài ngày sau sinh. Nếu qua khỏi sẽ mắc phải nhiều bệnh nan y trong đó có bệnh viêm màng não, viêm da và một số bệnh bẩm sinh. Bởi vậy khi mang thai người mẹ phải điều trị dứt điểm căn bệnh này hoặc không nên mang thai khi đang mắc bệnh.

6. Toxoplasma

Toxoplasma là động vật nguyên sinh đơn bào, nó có thể gây nhiễm trùng các loại động vật. Mèo được xem là động vật trung gian gây lan truyền Toxoplasma mạnh nhất ngoài ra có thể bị mắc bệnh do ăn uống không hợp vệ sinh, không đun sôi, nấu chín, có thói quen ăn thịt sống... Nếu trong giai đoạn mang thai bị nhiễm Toxoplasma có thể gây sảy thai, thai chết lưu, trẻ kém phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, nếu nặng có thể gây liệt não mù bẩm sinh.

7. Các loại thuốc nhóm X

Cũng theo FDA, phụ nữ mang thai không nên dùng các loại thuốc nhóm X bởi rủi ro gây quái thai rất cao. Trong nhóm thuốc này có Thalilomide dùng để chữa an thần và chống nôn nên được người ta lạm dụng, đặc biệt là chữa bệnh “ốm nghén”. Hiện tượng thường thấy là trẻ sinh ra có tứ chi phát triển không bình thường. khuyết tật nội tạng và phát triển méo mó khuôn mặt. Năm 1960 người ta đã rút thuốc này khỏi thị trường, thậm chí năm 2005 ở Anh người ta còn dựng tượng đứa trẻ bị dị tật do người mẹ dùng Thalilomide để cảnh báo mọi người hãy tránh xa loại thuốc này. Ngoài Thalilomide trong nhóm thuốc nói trên còn có thuốc tránh thai, thuốc chữa bệnh sinh sản, thuốc điều trị bệnh trứng cá, thuốc chống ung thư và chữa bệnh động kinh.

8. Các loại loại thuốc nhóm D

Các loại thuốc nhóm D (Category D.Dry) đã được Cục Quản lý và Thực phẩm - Dược phẩm Mỹ (FDA) cấm không dùng cho phụ nữ khi mang thai vì nó có thể gây hiện tượng quái thai.

9. Các loại hóa chất

Trong nhóm hóa chất, thủy ngân hữu cơ (mythyl mercury) được xem là nguy hiểm nhất đối với quá trình phát triển của bào thai, bởi nó gây ảnh hưởng tới hệ thống thần kinh, chậm phát triển tâm thần. Nặng có thể gây mù mắt, hợp chất này có trong cá, trong nguồn nước và khi người mẹ dùng, các chất độc này sẽ truyền sang cho đứa trẻ. Tiếp đến là nhiễm độc chì, sử dụng liều iốt kali quá lớn (có trong xirô chống ho, thuốc uống để chẩn đoán X-quang). Nhiễm độc PCB (Polychlorinated biphenyls) có trong các sản phẩm giặt, xà phòng, bảo quản thực phẩm… Để hạn chế khuyết tật khi sinh thì nên sống trong môi trường trong lành, không nên ăn cá nhiễm thủy ngân, nguồn nước ô nhiễm cũng như hoa quả nhiễm độc hoặc có chứa hàm lượng hóa chất cao.

10. Bức xạ ion hóa

Bức xạ ion hóa (Ionizing radiation) là mối nguy hiểm rất lớn đến sức khỏe sinh sản. Theo đó người mẹ chỉ cần tiếp xúc trong thời gian ngắn có thể dẫn đến tình trạng phát triển trí não bất thường, chậm phát triển tâm thần, gây bệnh bạch cầu ở trẻ sơ sinh. Nên thận trọng, kỹ thuật chẩn đoán bằng X-ray có mức độ bức xạ nhỏ, nhưng quét vi tính (CT) thì chỉ một lần quét có mức bức xạ cao gầp 10 lần khám X - quang, vì vậy khi mang thai nên hạn chế các thủ thuật này.

Khắc Hùng

Theo AKR – 3/2012

Xét nghiệm chẩn đoán thai nhi nhiễm rubella

Từ đầu năm đến nay có rất nhiều thai phụ mắc Rubella ở khắp các địa phương trong cả nước. Đây là bệnh rất nguy hiểm cho phụ nữ mang thai, nhất là trong 3 tháng đầu của thai kỳ vì có thể gây sinh non, sẩy thai, thai chết lưu, suy dinh dưỡng bào thai và đặc biệt là Rubella bẩm sinh (Trẻ bị nhiễm Rubella trước khi sinh có nguy cơ bị một hoặc nhiều dị tật, bệnh lý bẩm sinh như: Điếc, hở hẹp van tim, hẹp động mạch phổi, khuyết tật ở mắt: như đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, bệnh lý ỡ võng mạc; Các dị tật về xương dài, tật đầu nhỏ, bại não, dị dạng ở não, phổi, cơ khớp; Chậm phát triển về tâm thần, thể lực; Các bất thường ở gan, lá lách…

 Trẻ bị rubella bẩm sinh có nguy cơ bị dị tật.

Chỉ tính riêng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, từ đầu năm đến nay đã tiếp nhận khoảng 2.045 thai phụ mắc rubella. Các bác sĩ chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào nguồn lây bệnh, dấu hiệu lâm sàng như sốt, phát ban… và xét nghiệm sinh hóa miễn dịch. Tuy nhiên, do thai phụ thường đến khám muộn, không rõ phát ban và một số dấu hiệu khác nên không xác định được thời điểm mắc rubella và nguy cơ ảnh hưởng đối với thai nhi. Do đó số thai phụ xin phá thai rất cao, trong đó có thể có trường hợp thai nhi không nhiễm Rubella.

Để hạn chế tối đa tỉ lệ phá thai do nghi nhiễm Rubella, từ cuối tháng 6/2011, Trung tâm Chẩn đoán trước sinh, Bệnh viện Phụ sản Trung ương đã thử nghiệm và triển khai phương pháp chọc dịch ối chẩn đoán thai nhi nhiễm vi rút rubella bằng kỹ thuật sử dụng Kit và máy PCR real – time, cho kết quả chính xác đến 95%. Các bác sĩ sẽ tiến hành lấy mẫu dịch ối (khoảng 1,5-2ml) của các bà mẹ mắc vi rút Rubella sau 5-7 tuần kể từ khi mẹ có biểu hiện sốt phát ban, sau đó tách chiết RNA của vi rút,  rồi chạy máy PCR real - time để phân tích kết quả thai nhi có nhiễm Rubella hay không.

Theo nghiên cứu đánh giá 5 ca chọc ối chẩn đoán thai nhi nhiễm rubella, có 3 trường hợp dương tính, 2 trường hợp âm tính. Tất cả các xét nghiệm PCR real-time chẩn đoán virus rubella trong nước ối đều phù hợp với kết quả xét nghiệm máu cuống rốn của thai nhi sau khi đình chỉ thai. Đến nay đã có khoảng 70 thai phụ đã được sử dụng xét nghiệm này để chẩn đoán thai nhi có nhiễm rubella hay không.

Phương pháp này được các bác sĩ tư vấn chỉ định ở các đối tượng mắc Rubella như: Phụ nữ mang thai hơn 3 tháng có nguy cơ, các ca mang thai ngoài 17 tuần nguy cơ thấp hơn nếu có yêu cầu, các ca mắc rubella hoặc đã tiêm phòng trong vòng 1 tháng đầu mang thai.         

 Hà Giang